tưởng niệm nhạc sĩ đan thọ (1924-2023)

Nhạc sĩ ĐAN THỌ qua đời ngày 4 tháng 9 năm 2023 ở Houston, Texas, hưởng thượng thọ 99 tuổi. Ông là tay vĩ cầm và Tenor Sax nổi tiếng trước 1975 và cũng là tác giả của ca khúc CHIỀU TÍM (lời: Đinh Hùng), TÌNH QUÊ HƯƠNG (phổ thơ Phan Lạc Tuyên) ...

https://www.dignitymemorial.com/obituaries/houston-tx/tho-dan-11434978

*********

ÔB Đan Thọ
Trở về thăm Hà Nội
Đám cưới Đan Tâm & Mùi Quý Bồng ở Sài Gòn / Gia đình Mùi Quý Bồng ở Texas

*******

*********

*** Thư pháp: Văn Tấn Phước Paris ***

NGUYỆN CẦU ANH LINH Nhạc Sĩ ĐAN THỌ AN GIẤC NGÀN THU CÕI TRỜI!
CHÂN THÀNH PHÂN ƯU CÙNG GIA ĐÌNH TANG GIA!
Tuệ Nga (Oregon USA)

********

Thật lấy làm tiếc vô cùng khi hay tin nhạc sĩ lão thành Đan Thọ đã rời bỏ chúng ta. P. Hoa kính gửi bài thơ đưa tiễn để cùng Cỏ Thơm chia buồn với gia đình BS Mùi Quý Bồng:

KÍNH TIỄN ĐƯA NHẠC SĨ LÃO THÀNH ĐAN THỌ

99 thu qua ở cõi đời
Nay về Tiên Cảnh thỏa rong chơi
Lìa xa CHIỀU TÍM niềm thương phủ
Bỏ lại DƯƠNG CẦM ngấn lệ rơi
ĐAN THỌ cung ngà, âm réo rắt
Cây đàn phiếm ngọc, nốt đầy vơi
Tiếc thương nhạc sĩ dòng thơ nghẹn
Kính tiễn người đi hưởng phước Trời.
Phương Hoa – SEP 11, 2023

******
Minh Thúy kính góp lời cầu nguyện đến linh hồn nhạc sĩ Đan Thọ sớm hưởng nhan Thánh Chúa. Kính chia buồn cùng tang quyến.

MT xin góp họa theo bài chị PH( đảo vận )

Vĩnh Biệt Nhạc Sĩ Đan Thọ 
“Chiều tím” tiễn ông giã biệt đời 
“Dương Cầm” vọng lại tiếng buồn rơi 
Buông êm kỷ niệm chôn lòng đất 
Xếp gọn hành trang gởi nắng trời 
Phím lạc vấn vương đàn mãi thả 
Cung sầu tiếc nuối lệ nào vơi 
“Tình quê hương” lão thành Đan Thọ 
Nhạc sĩ thu vàng bỏ cuộc chơi 

Minh Thúy Thành Nội – Tháng 9/13/2023

********

Cam on Anh Chi da chuyen tin tuc ve NS Dan Tho. Ong da co nhung nhac pham de doi cho Chung Ta vao luc 60-70 thoi SAIGON dau yeu.
Xin on tren don nhan Nhac Si Dan Tho ve mien Cuc Lac.
Dan Tam cung la Ban hoc Dai Hoc Luat Khoa SAIGON. Tot nghiep 1971 Ban Tu Phap. Dan Tam ra truong lap gia dinh voi Bs BONG (QY). 
Ban Be ra truong khong bi di Quan Dich phan dong hanh nghe Luat Su. Luat khoa SAIGON 1971.

Xin chia buon cung Ong Ba Mui Quy Bong & Dan Tam va Gia Quyen.

TAM D NGUYEN

*******

NGUYỆN CẦU HƯƠNG LINH NHẠC SĨ ĐAN THỌ RA ĐI THANH THẢN, BÌNH AN VÀ SỚM ĐƯỢC SIÊU THOÁT.
THÀNH TÂM CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN.

PHƯƠNG NGUYỄN

******

Quang Hà xin gửi lời chia buồn đến gia đình Nhạc Sĩ Đan Thọ.
Nguyện cầu hương linh Nhạc Sĩ sớm an nhiên trên cõi Vĩnh Hằng.

******

ĐÀN BẢN CHIỀU TÍM TƯỞNG NHỚ NHẠC SĨ ĐAN THỌ (1924- 2023)

Báo chí loan tin nhạc sĩ Đan Thọ vừa qua đời tại tiểu bang Texas ngày 4 tháng 9 năm 2023, hưởng thọ 99 tuổi. Ông là một trong những nhạc sĩ sống lâu của nền tân nhạc Việt Nam.

Thời tôi còn trẻ ở quê nhà, tôi vẫn thường ôm đàn hát bản Chiều Tím do nhạc sĩ Đan Thọ sáng tác phần nhạc và thi sĩ Đinh Hùng đặt lời ca. Cần nói rõ như vậy để thấy rằng nét nhạc của bản Chiều Tím rất tự nhiên vì nhạc có trước rồi mới đặt lời sau.

 Khác với nhiều ca khúc phổ thơ, thơ có trước rồi nhạc dựa vào lời thơ; cho nên nét nhạc bị gò bó trong khuôn khổ của bài thơ. Loại ca khúc phổ thơ này thì lời ca hay vì đó là thơ nhưng nét nhạc thì không bay bỗng.

Riêng bản Chiều Tím thì nét nhạc của nhạc sĩ Đan Thọ rất du dương, có lẽ ông sáng tác bằng vĩ cầm cho nên ý nhạc réo rắc như tiếng cây đàn này. Thi sĩ Đinh Hùng cũng biết chơi đàn, ông thổi vào những từ ngữ phiêu bồng, đẹp đẽ làm cho ca khúc Chiều Tím trở nên bản tình ca bất tử của dòng nhạc Việt Nam.

Năm 1976, thời còn ở Sài Gòn, người bạn văn nghệ Phạm Kiên Hoàng đã soạn bản Chiều Tím cho độc tấu Tây Ban Cầm, tông Mi Trưởng vì dùng dây buông Mi trầm và dây buông La trầm. Từ tông Mi Trưởng, anh chuyển sang tông Đô Thăng Thứ nghe thật ngọt ngào. Các hợp âm dùng và soạn cho đàn ghi ta bản Chiều Tím thật đơn giản, để ai cũng có thể đàn được. Nhưng điều quan trọng là tiếng đàn phải thật ngọt ngào.

Khi vượt biển sang Canada năm 1979, thỉnh thoảng tôi ôm đàn ghi ta khảy bản Chiều Tím và các bạn văn nghệ rất thích. Tôi không nhớ hết các chi tiết cầu kỳ của bản độc tấu, nhưng giữ được cái hồn của bản soạn Tây Ban Cầm. Và mấy chục năm qua, tôi ít khi đàn lại bản này, tưởng như đã quên hết.

Khi nghe tin nhạc sĩ Đan Thọ qua đời, tôi ráo riết tập đàn lại bản độc tấu Chiều Tím. Các thế bấm chặn dây trầm thật mỏi tay và tôi đánh vấp nhiều lần, thật vất vả. Đây là cái khó của môn ghi ta cổ điển. Muốn thưởng thức trọn vẹn người độc tấu Tây Ban Cầm thì phải nhìn ngón tay trên phím đàn của người trình tấu để thấy nét đẹp các thế bấm cùng lúc nghe tiếng đàn của họ.

Tôi là người viết ca khúc chứ không phải nhạc sĩ chuyên độc tấu Tây Ban Cầm cổ điển.  Đàn lại bản này để tưởng nhớ tác giả bản Chiều Tím vừa ra đi và nhớ lại một thời tuổi trẻ mê đàn Classical Guitar, một thời hoa mộng của Sài Gòn.

 Và cũng để nhớ bạn Phạm Kiên Hoàng- người đã soạn ghi ta bản này. Bạn vượt biển sang Tây Đức- mấy chục năm không gặp lại.

Nhiều ca sĩ nổi tiếng đã hát bản Chiều Tím,  nhiều băng nhạc hòa tấu bản này, nhưng đây là lần đầu mời khách yêu nhạc nghe độc tấu Tây Ban Cầm bản Chiều Tím để tưởng nhớ nhạc sĩ Đan Thọ.  Trong ca khúc có câu “ Từ đó đàn nhớ thanh âm, chùng dây vĩ cầm, người xa vắng rồi, chiều sang em ơi…”  Ở đây không phải là tiếng vĩ cầm mà là tiếng Tây Ban Cầm!

Mời vào Youtube : https://www.youtube.com/watch?v=ss_RR-C_Gwo

TRẦN CHÍ PHÚC

*******
NHẠC SĨ ĐAN THỌ – CÂY VĨ CẦM ĐÃ LẶNG

Vào một ngày của thập niên 1960, khi đang ngồi uống cà phê ở quán La Pagode góc đường Tự Do (cũ), nhạc sĩ Đan Thọ đưa một bản nhạc ông vừa sáng tác, nhưng chưa đặt lời cho hai nhà thơ Đinh Hùng và Thanh Nam. Sau khi xem, thi sĩ Đinh Hùng nói: “Moi (tôi) biết chơi mandoline, để moi viết lời ca cho.” Khi Đinh Hùng hoàn thành lời nhạc, ba người gặp lại nhau. Nhà thơ Thanh Nam đề nghị đặt tên ca khúc là Chiều Tím.

Câu chuyện này được nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn kể lại trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn.

Chiều Tím là một trong 10 nhạc phẩm nhạc sĩ Đan Thọ để lại cho cuộc đời, cũng là ca khúc đầu tiên ông sáng tác từ khi vào Sài Gòn năm 1956. Kể từ ấy, bản nhạc du dương, kết hợp cùng ca từ sang trọng, nhẹ nhàng đậm chất thơ, đã đi cùng năm tháng, qua tiếng hát của ca sĩ thuộc nhiều thế hệ, từ trong nước đến hải ngoại.

Có một câu chuyện khá xúc động về ca khúc Chiều Tím của nhạc sĩ Đan Thọ. Đó là cuối năm 2020, chương trình Thuý Nga Music Box Số 26 do Trung tâm Thuý Nga Paris By Night thực hiện có tên là Chiều Tím. Nhưng sau đó, chương trình này còn có một tên gọi khác: Danh Ca Lệ Thu – Lần Trình Diễn Cuối Cùng. Lý do đây là chương trình cuối của nữ danh ca cộng tác với trung tâm Thuý Nga. Sau đó bà qua đời vì Covid ngày 15 Tháng Giêng năm 2021. Chiều Tím chính là ca khúc bà đã hát trong Music Box 26. Khi chương trình công chiếu, thì lúc ấy…
“Người xa vắng rồi chiều sang em ơi!
Thương ai hoa rơi lá rơi…”
https://youtu.be/dYFh34cW0DE?si=hcFMWh

Trong cuộc đời nghệ sĩ của nhạc sĩ Đan Thọ, có lẽ ngoài người vợ tào khang gắn bó với ông suốt cả cuộc đời, thì cây vĩ cầm là bóng dáng thứ hai (duy nhất) gắn với đời ông. Theo lời nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, “Đan Thọ là người đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc xây dựng nền tân nhạc Việt Nam với tư cách một nhạc sĩ chơi vĩ cầm trước khi sáng tác.”

Dù ngoài vĩ cầm, ông chơi được rất nhiều nhạc cụ khác, đặc biệt là saxo tenor, nhưng vĩ cầm gắn liền với nhiều sự kiện trong đời ông, có thể nói từ những ngày đầu tiên ông bước vào âm nhạc cho đến ngày ông rời cung đàn xưa. Hình ảnh của ông và cây vĩ cầm hoặc cây kèn saxo đã rất quen thuộc, trở thành “biểu tượng” của phòng trà, vũ trường ở Sài Gòn trước 30 Tháng Tư năm 1975.

Cố nhạc sĩ Trường Kỳ từng viết trong tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 134 phát hành ngày 1 tháng 9 năm 2017: “Louisiana là nơi vợ chồng người con gái ông cư ngụ từ lâu trong khi đáng lẽ gia đình ông phải đi Washington D.C. do một người em của vợ ông bảo lãnh.”

“Đan Thọ lấy lý do sợ cái lạnh của vùng đông bắc Hoa Kỳ nên đã xin với phái đoàn phụ trách sắp xếp chuyến bay để qua sống tại New Orleans trước khi dời qua California một thời gian ngắn sau, trước khi quay trở lại sống ở New Orleans vào năm 1997.

Với hai nhạc phẩm “Red Eyes Are Smiling” và “Lòng Mẹ”, tiếng đàn vĩ cầm của Đan Thọ đã khiến cho những nhân viên Mỹ cũng như Việt của phái đoàn này cảm động để sau đó chiều theo lời đề nghị của ông.”

Cũng theo câu chuyện được cố nhạc sĩ Trường Kỳ kể lại, nhạc sĩ Đan Thọ “đã lặng người đi khi nhìn thấy cây đàn vĩ cầm thân yêu được vớt lên từ căn nhà gồm ba phòng ngủ ngập nước của ông tại New Orleans do trận bão Katrina gây nên.”

Ông đã nhờ nhiều chuyên viên sửa đàn phục hồi cho ông cây vĩ cầm từng gắn bó với cả cuộc đời âm nhạc của mình, nhưng chỉ sửa sang lại được bề ngoài. Cơn bão vô tình và những trận ngập lụt dài ngày đã cuốn trôi âm thanh réo rắt của cây đàn tri âm tri kỷ.

Cố nhạc sĩ Trường Kỳ đã viết: “Cây vĩ cầm quí giá của một đời nghệ sĩ đó giờ đây đang được trưng bầy ở một nơi trang trọng nhất trong cái apartment xinh xắn và gọn gàng có 2 phòng ngủ của cặp vợ chồng già, quấn quít bên nhau từ 63 năm nay. Mỗi lần nhìn cây vĩ cầm quen thuộc, Đan Thọ cảm thấy như cả một dĩ vãng ngày nào hiện về rõ mồn một với ông.”

Cuộc đời một người tỵ nạn, đặc biệt là một nghệ sĩ tỵ nạn, khó trốn được cảnh “trùng dây vỹ cầm.” Để nguôi ngoai theo dòng thời gian, ông học cách hoà âm trên máy tính và quay lại thú vui tao nhã ngày cũ ở Sài Gòn: nuôi chim Hoàng Anh.

Thi sĩ Du Tử Lê thưở sinh thời đã tự hỏi: “Tôi không biết tác giả ‘Tình Quê Hương’ có tìm thấy mối tương quan nào chăng giữa tiếng hót của chim hoàng anh và, tiếng vĩ cầm sớm đi vào ca khúc của ông? Nhưng, tôi trộm nghĩ, cách gì thì nơi thẳm sâu tâm hồn người nhạc sĩ tài hoa, nặng lòng với quê hương này, vẫn mãi là:
“… Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu
Người đi hướng nào? Tìm trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi…”

“Tình Quê Hương là một trong hai ca khúc gây ấn tượng nhất của Đan Thọ đối với người nghe,” theo nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.

Số mệnh của Tình Quê Hương, ca khúc phổ thơ của Phan Lạc Tuyên, cũng lắm thâm trầm. Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã viết: “Có một thời gian dài người ta không muốn nghe lại bài hát nữa, mặc dầu phần nhạc của Đan Thọ rất hay. Có thể nói, phần thơ của Phan Lạc Tuyên đã gây oan cho phần nhạc của Đan Thọ. Văn học nghệ thuật của chúng ta, trong nửa thế kỷ qua, gặp phải nhiều sự khốn khó, rắc rối vì không thể nào tách ra khỏi những ràng buộc chính trị.”

Nhạc sĩ Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh ngày 21 Tháng Sáu năm 1924 tại Nam Định. Trong những năm từ 1936 đến 1942, Đan Thọ theo học chữ và học nhạc tại trường Saint Thomas D’Aquin. Qua năm 1942, ông bắt đầu theo học về hòa âm và sáng tác với các giáo sư Tạ Phước và Vũ Đình Dự cho đến năm 1945, là năm ông bắt đầu đàn violin cho phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng, cũng ở Nam Định.

Trong cuộc đời sáng tác của mình, ông để lại không quá 10 tác phẩm, trong đó nổi bật nhất là hai ca khúc Tình Quê Hương và Chiều Tím. Nhạc phẩm cuối cùng ông sáng tác là bài Dương Cầm, 10 năm sau khi ông định cư ở Mỹ. Cảm hứng để ông cho ra đời tác phẩm này là khi ông nhìn thấy cô cháu ngoại thân yêu đang lướt 10 ngón tay xinh trên phím đàn. Nhiều năm sau, khi cô bé ấy, đã trở thành ký giả YLan Mùi kết hôn, cũng là lần cuối cùng ông đệm và hát ca khúc Chiều Tím trong tiệc cưới của cô.

“The last time I heard my grandfather play for me was at my wedding. He graced us with his most famous song, Chiều Tím. It felt like his eyes were on me the entire time despite the crowd of friends and family around us. He was serenading me one more time, reminding me of the idyllic days of my childhood, the music that always bound us together and the love that will last long after the last notes fade away”

“Lần cuối cùng ông ngoại đàn cho tôi là trong lễ cưới của tôi. Ông đã tặng chúng tôi bản nhạc nổi tiếng nhất của ông: Chiều Tím. Dường như đôi mắt của ông hướng về tôi suốt trong những giây phút ấy, dù có rất nhiều bạn bè, và gia đình thân thuộc khắp chung quanh. Ông đã đàn để tặng tôi một lần nữa, làm tôi nhớ lại những tháng ngày kỳ diệu của tuổi thơ, nguồn âm nhạc đã luôn mang ông và tôi đến gần với nhau, và tình yêu thương còn mãi sau khi những nốt nhạc cuối cùng lịm tắt.” –  YLan Mùi.

Ngày 4 Tháng Chín, 2023, tại thành phố Houston, Texas, dây vĩ cầm đã lặng. Ông ra đi mang theo “tình quê hương”. Nhưng chắc chắn, tiếng đàn của ông sẽ mãi réo rắt mãi trong dòng chảy âm nhạc của người Việt Nam.
NGUỒN:
https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/nhac-si-dan-tho-cay-vi-cam-da-lang/

**********

Tưởng Nhớ Nhạc Sĩ Đan Thọ (6/1924-9/2023) – Vương Trùng Dương

Nhạc sĩ Đan Thọ qua đời ngày 4 tháng Chín năm 2023, thành phố Houston, Texas, hưởng đại thọ 99 tuổi. An giấc nghìn thu ngày 18 tháng Chín, tại Nhà Quàn Vĩnh Cửu (Chapel of Eternal Peace at Forest Park), Houston, Texas. Với tuổi ta, nhạc sĩ được bách niên (100 tuổi) tuổi hạc đại thượng thọ trên cõi trần.

Nhạc sĩ Đan Thọ tuy không sáng tác nhiều nhưng cả cuộc đời cho nghệ thuật với niềm đam mê âm nhạc và những đóng góp của ông trong lãnh vực nầy từ thời tiền chiến ở Hà Nội, hai thập niên ở Sài Gòn và thời gian ở hải ngoại.

Những nhạc phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Đan Thọ như: Bóng Quê Xưa (1952), Vọng Cố Đô (chung với Nhật Bằng), Thú Ly Hương… Tình Quê Hương (thơ Phan Lạc Tuyên), Mimosa Thôi Nở (thơ Nhất Tuấn), Chiều (lời Đinh Hùng). Có lẽ nhạc phẩm Dương Cầm của ông (ý thơ Mùi Quý Bồng, con rể) là ca khúc cuối đời. Trong đó hai ca khúc Tình Quê Hương và Chiều Tím được giới thưởng ngoạn âm nhạc yêu thích nhất.

Tài hoa của nhạc sĩ Đan Thọ điêu luyện với nhiều loại nhạc cụ khác nhau, ngón đàn violin điêu luyện và tiếng kèn saxophone rất tuyệt, ngoài ra với đàn hạc (harpe) loại đàn cổ nhất của Ai Cập thời xa xưa và đàn bandura của đất nước hoa hướng dương (Ukraine).

*

Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh ngày 21 tháng 6 năm 1924 tại Nam Định, Bắc phần, theo học tại trường Saint Thomas D’Aquin trong khoảng từ năm 1936 đến 1941 và thơi goan nầy học vỹ cầm. Từ năm 1942 đến 1945, ông học hòa âm và sáng tác với các giáo sư, nhạc sĩ Tạ Phước (vị hiệu trưởng đầu tiên của Nhạc Viện Hà Nội). Năm 1945, ông chơi đàn violin cho phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng (1922-1998) ở Nam Định.

Năm 1945, ông lập gia đình với cô thiếu nữ Hà Nội Nguyễn Thị K. Thanh mới 16 tuổi, (sinh năm 1929) gia đình có phần e dè khi biết con gái sắp thành thân với nhạc sĩ. Thế nhưng ông bà sống với nhau trọn đời, cùng nuôi dạy nên người một con trai và ba con gái (trưởng nam Đan Đình Thành, trưởng nữ Đan Kim Tâm, thứ nữ Đan Kim Trang (quá vãng), út nữ Đan Kim Thư.

Năm 1948, nhạc sĩ Đan Thọ gia nhập Ban Quân Nhạc Đệ Tam Quân Khu Hà Nội cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nhật Bằng… Trong thời gian này, ông được nhạc trưởng quân nhạc Schmetzler hướng dẫn về kèn.

Năm 1954, ban quân nhạc cùng gia đình ông di cư vào Nha Trang. Năm 1956 vào Sài Gòn, ông được mời cộng tác với vũ trường Đại Thế Giới, và ông tiếp tục trau giồi môn kèn với nhạc sĩ Mano Umali người Phi Luật Tân.

Năm 1956, ông trưởng ban nhạc nhẹ của đài Ðài Phát Thanh Tiếng Nói Quân Ðội trong khoảng một thời gian mười năm, gồm các nhạc sĩ nổi tiếng như Xuân Tiên, Xuân Lôi, Canh Thân,… Năm 1965, Đan Thọ giải ngũ và sau đó tham gia vào ban nhạc Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh và tiếp tục chơi nhạc tại các phòng trà, vũ trường cho tới năm 1975.

Gia đình Đan Thọ kẹt lại Việt Nam đến tháng 3/1985 mới tới Hoa Kỳ, theo diện đoàn tụ do sự bảo lãnh của người em vợ. Nhạc sĩ Đan Thọ không định cư ở Washington D.C. lấy lý do sợ cái lạnh của vùng đông bắc Hoa Kỳ nên xin với phái đoàn sắp xếp chuyến bay sang New Orleans để sống với gia đình người con gái. Đây là quê hương của nhạc Jazz, hợp với sở trường của ông nhưng ít người Việt sinh sống. Nhạc sĩ Đan Thọ đã một thời tự lập và vẫn còn đam mê với âm nhạc nên theo lời thân hữu, ông bà chuyển sang Little Saigon. Bà Đan Thọ là mẩu người mẹ Việt Nam hiền thục, tận tụy với con, chìu chồng (thời trước, nhạc sĩ Đan Thọ chơi nhạc ở vũ trường, đến khuya mới về nhà, bà vẫn đợi chồng về mới đi ngủ). Ông và vợ đi làm cho hãng General Ribbon ở Van Nuys, tây bắc TP Los Angeles. Mỗi ngày phải đi khá xa nhưng ông bà “đôi ta có nhau” trong những năm dài. Vẫn nhớ bầu không khí của một thời xa xưa nên cuối tuần, ông chơi vỹ cầm, kèn saxo trong vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh, người bạn thân với ông trong ban nhạc Shotguns ở Sài Gòn.

Ngày 30 tháng 6 năm 1995, nhạc sĩ Đan Thọ mở đêm nhạc từ giã bạn bè California về Louisiana đoàn tụ với gia đình con gái Đan Tâm và rể là bác sĩ Mùi Quý Bồng.

Những tưởng an hưởng tuổi già với con cháu, năm 2005, trận bão Katrina quét qua New Orleans, trong thiên tai này, nhạc sĩ lại mất sạch những nhạc cụ ông yêu quý, trong đó có cây vỹ cầm đến hơn 250 tuổi và cây kèn saxo mạ vàng, hai báu vật của ông. Ông bà dọn về Florida lánh nạn ở nhà trưởng nam Đan Thành. Và những năm cuối đời ông bà dọn về Houston, Texas, cùng nơi cư ngụ của các con gái cho đến ngày nay.

Với nhạc sĩ cả cuộc đời sống với âm nhạc nên đã có nhiều bài viết. Nay trích dẫn vài hồi ức trong gia đình.

Hồi Ức Về Nhạc Sĩ Đan Thọ của anh Đan Thành (trưởng nam, kiến trúc sư) viết về chiếc vỹ cầm vào năm 2017:

“Bố tôi cũng thế, ông nâng niu và xem chiếc vỹ cầm như một người tình, lãng mạn và hay hờn giận qua những lần thay giây đàn. Ông thương yêu, gìn giữ như một báu vật. Sau những buổi trình diễn, tôi thấy ông cẩn thận lau chùi, nhẹ nhàng cất vào hộp đàn với tấm nhung mềm mại che chở bao quanh người tình trẻ. Mọi người nhắc đến tên ông nhạc sĩ Đan Thọ luôn đi theo với tiếng vỹ cầm réo rắt của ông.

Chiếc vỹ cầm đã theo ông đi khắp miền đất nước, từ một góc quán Thiên Thai ở Nam Định, qua Hà Nội của những năm 40-45, xuống thôn Vĩ Dạ miền Trung, trong những hộp đêm tráng lệ Sài Gòn ngày nào… Tiếng đàn của ông cao vút bay xa, vượt qua khoảng không gian nhất định, chạm vào hơi thở của người đang thưởng thức, thật đúng như:

Tiếng đàn đã gíúp ông nuôi sống gìa đình, che chở đàn con khờ dại trong mấy chục năm trời.

… Bố tôi rửa tay gác kiếm, nói theo phong cách của nhà văn Kim Dung, hằng ngày vui cùng cỏ cây, thỉnh thoảng ông mang chiếc vỹ cầm xưa ra lau chùi và tấu lên giòng nhạc của dân du mục Gypsy xa xưa… âm thanh quyện với thời gian cùng tâm sự người xa xứ…

Tháng 8 năm 2005, chúng tôi lo ngại và thường xuyên gọi điện thoại thăm hỏi nhắc chừng. Sự lo ngại trở thành sự thật, cơn bão Katrina lớn quá sức tràn qua những vùng Bắc Florida, Albama và đổ vào New Orleans, trung tâm bão nằm ngay trên hồ điều chỉnh nước Lake Pontchartrain. Nước tràn qua đê ngăn và đổ xuống vùng thấp, nơi Bố Mẹ và gia đình hai em gái tôi đang trú ngụ.

Bố Mẹ tôi chỉ có 30 phút để chạy ra khỏi nhà, giòng nước mạnh bạo tràn xối xả vào khu dân cư tạo thành những giòng nước cao gần 15 feet… Từ ngày đó, Bố tôi thường nhắc đến chiếc đàn xưa của ông hãy còn chìm trong giòng nước lạnh”.

Sau trận thiên tai, anh Đan Thành đưa thân phụ trở lại căn nhà xưa:

“Tay Bố tôi run rẩy khi chạm vào chiếc vỹ cầm, hình như ông xúc động lắm khi nhìn những mảnh vỡ của chiếc vỹ cầm, như thấy đứa con trở về qua bao lần sóng gió. Ông cẩn thận gom từng mảnh vụn của chiếc đàn, lau chùi nhẹ nhàng đặt chúng theo thứ tự vào hộp, có lẽ trong đầu ông còn bàng hoàng không tin vào những gì đã xảy ra do cơn bão để lại”.

Hồi Ức Về Nhạc Sĩ Đan Thọ về ca khúc Dương Cầm của con rể Mùi Quý Bồng (bác sĩ, nhà thơ với thi phẩm Mong Manh (1994) và với bút hiệu Chẩm Tá Nhân, tập thơ vui Tiếu Lâm Chân Kinh dày 632 trang, ra mắt ở Little Saigon, July, 2022).

BS Bùi Quý Bồng lập gia đình với trưởng nữ nhạc sĩ Đan Thọ là Đan Kim Tâm năm 71. Du học ở Mỹ năm 1973, sau năm 1975 bị kẹt lại, nhớ vợ nên làm thơ tình cho đến khi vợ vợ con qua vào tháng 4 năm 1979. Sau thời gian làm Orientation ở Washington DC, anh xuống New Orleans từ tháng Giêng năm 1974 cho đến trận bão Katrina năm 2005, gây thiệt hại cho gai đình anh trắng tay nên sau đó dời về chuyển sang Houston, Taxas. Là bác sĩ với tâm hồn nghệ sĩ, anh viết:

“Một buổi chiều Thu năm ấy, đã lâu lắm rồi. Ngồi trên chiếc phi cơ từ Orange County, California trở về New Orleans, Louisiana, tôi gắn ống nghe vào tai, ngả đầu trên ghế, mở nhạc nghe cho qua thì giờ. Đột nhiên những âm thanh thánh thót, trầm bổng qua tiếng dương cầm trong bản Piano Concerto No 21 của Mozart trong một thoáng chốc bỗng đem tôi rời khỏi khung cảnh chật hẹp trong lòng chiếc phi cơ đến một cõi mộng mơ xa vời nào đó khiến tôi quên hết thực tại. Tôi thấy mình như đang bay bổng giữa một không gian Liêu Trai xa vắng, mơ hồ, ngây ngất. Bản nhạc vừa dứt thì tôi cũng bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mơ. Ý thơ từ đâu bỗng cuồn cuộn chẩy đến, và tôi đã viết bài thơ Dương Cầm ngay lúc đó, trên một tờ napkin cô tiếp viên tóc vàng xinh xắn vừa đưa cho tôi cùng với ly cà phê ít phút trước.

… Bận rộn với công việc, thời gian sau đó tôi cũng quên đi, không nhớ đến nó. Cho đến một hôm nhạc sĩ Đan Thọ đưa tôi xem bản nhạc Dương Cầm ông vừa viết xong, dựa theo ý bài thơ của tôi. Ông nói ông đã có cảm hứng khi ngồi nhìn và nghe cô cháu ngoại, YLan, ngồi trước cây đàn dương cầm, tập dượt cho một buổi trình tấu của Đại Học Loyola ở New Orleans. YLan là cô con gái thứ hai của tôi và Đan Kim Tâm, trưởng nữ của nhạc sĩ Đan Thọ.

… Một điểm thú vị là ít lâu sau đó nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm gửi cho tôi một phiên bản khác của Dương Cầm. Ông nói ông rắt thích bản Dương Cầm của Đan Thọ, nhưng ông muốn viết một phiên bản mới để giữ cho bản nhạc đi sát với lời thơ hơn.

… Tôi có cái may mắn được gọi nhạc sĩ Đan Thọ là nhạc phụ, và sau này, khi ông từ Orange County về New Orleans, rồi sau trận bão thảm khốc Katrina, qua Houston sinh sống, trở thành y sĩ riêng, chăm sóc sức khỏe cho ông, giữ cho ông còn được vui sống với con cháu cho đến ngày nay dù đã trên 90 tuổi”.

Cháu Mùi Quý Y Lan (Ylan Mui) ái nữ của anh chị Mùi Quý Bồng – Đan Tâm, cháu ngoại của nhạc sĩ Đan Thọ, Mùi Quý Y Lan từ nhỏ chơi dương cầm và hình ảnh cô ngồi đàn piano thuở bé đã tạo cảm hứng cho ông ngoại sáng tác bản nhạc cuối cùng tựa đề Dương Cầm với ý thơ Mùi Quý Bồng. Ylan Mui từng là giáo sư thỉnh giảng ngành báo chí tại đại học University of Maryland. Sau gần 15 năm làm phóng viên chuyên về giáo dục rồi tài chánh cho nhật báo The Washington Post, bước sang lãnh vực truyền hình và cộng tác với hệ thống CNBC, ký giả Y Lan thường xuyên được mời xuất hiện trên đài C-SPAN.

Bài viết về Ông Ngoại với những kỷ niệm và tâm tình dành cho ông ngoại Đan Thọ, nguyên tác tiếng Anh (BS Mùi Quý Bồng dịch sang Việt ngữ) với tâm tình: 

“Khi tôi còn nhỏ, Ông Bà Ngoại tôi sống trong một căn nhà bình thường, trên một con đường khiêm tốn trong khu Garden Grove. Đây là một căn nhà một tầng, với một hồ bơi, một mái hiên đằng sau, và một cái bếp nho nhỏ. Nhưng với một cô bé 10 tuổi, đó là một thế giới thần tiên, kỳ diệu.

Chị em tôi và những người anh em họ đã có những ngày Hè dài vẫy vùng trong hồ bơi, tắm mát trong ánh nắng trường cửu của California…

… Nhưng không có tiếng nhạc nào ngọt ngào hơn những âm thanh từ chiếc vỹ cầm của Ông Ngoại. Ông đã cho tôi được ôm chiếc vỹ cầm ấy một lần khi tôi đến thăm ông, trao phó bảo vật ông quý nhất vào bàn tay vụng về của tôi. Tôi cố gắng kéo được vài nốt nhạc, và lập tức hiểu rằng những âm thanh kỳ diệu ông tạo ra từ cây vỹ cầm của ông đòi hỏi cả một đời để tôi luyện.

Ông Ngoại và âm nhạc, trong tâm trí tôi, là một. Lớn dần lên theo ngày tháng, nhưng tôi không hiểu rõ lắm hoàn cảnh và sự phấn đấu của gia đình. Chiến tranh và những chịu đựng là một khái niệm trừu tượng đối với cái tâm hồn Mỹ hóa của tôi. Nhưng tôi hiểu Ông Ngoại và âm nhạc của ông. Tôi vẫn biết rằng ông là một nhạc sĩ tài hoa, không những với vỹ cầm, mà còn với saxophone, và cả dương cầm. Khi ông đàn, ông gợi lên những dấu nét của một quốc gia mà tôi, thế hệ Việt Nam thứ hai, mới bắt đầu thấu hiểu. Cái hoa mỹ, cái lãng mạn, cái khổ tâm, hoà hợp làm một. Đến khi tôi đã lớn khôn, tôi mới nhận ra cái giá gia đình chúng tôi đã phải trả để Ông Ngoại có thể cho tôi thưởng thức âm nhạc trong căn nhà nho nhỏ, bình thường của ông ở khu Garden Grove.

Ông Ngoại đã truyền cái khả năng âm nhạc ấy vào hệ DNA của tôi. Tôi cảm nhận được sự hãnh diện của ông khi ông theo dõi sự tiến bộ về dương cầm của tôi. Ông thường nở nụ cười thoả mãn và dìu tôi đến ngồi trên ghế để tập dượt. Ông, người nhạc sĩ chuyên nghiệp và người bảo trợ của tôi!

Ông Ngoại là người tạo cảm hứng cho tôi là chuyện hiển nhiên. Nhưng tôi không ngờ tôi cũng đã là nguồn cảm hứng của ông! Một ngày nọ, sau khi nghe và nhìn tôi tập dượt, ông đã viết một bản nhạc mới mang hình ảnh tôi. Lời bài nhạc dựa theo ý một bài thơ do Bố tôi viết. Tựa bài nhạc là Dương Cầm. Một bản nhạc mới, viết trên một quê hương mới, một kết hợp phản ảnh ba thế hệ trong gia đình tôi! Đây là bản nhạc duy nhất Ông Ngoại viết trong những ngày sống tha hương, và là bản nhạc cuối cùng ông viết trong cuộc đời nghệ sĩ.

Lần chót Ông Ngoại đàn cho tôi là trong lễ cưới của tôi. Ông đã trình bầy bản nhạc nổi tiếng nhất của ông: Chiều Tím. Dường như cặp mắt ông chỉ hướng về tôi trọn vẹn trong những giây phút ấy, mặc dù có rất nhiều bạn bè, và gia đình thân thuộc khắp chung quanh. Ông đã đàn để thương tặng tôi một lần nữa, làm tôi nhớ lại những tháng ngày kỳ diệu của tuổi thơ tôi, nguồn âm nhạc đã luôn gắn bó chúng tôi với nhau, và niềm yêu thương còn mãi tồn tại sau khi những nốt nhạc cuối cùng đã dần lịm tắt”.

Nhạc sĩ Nguyên Bích, bác sĩ Quân Y, tác giả ca khúc Tâm Sự Kẻ Xa Quê và Tình Si (thơ Mùi Quý Bồng) chai sẻ về đàn hạc:

“Một lần qua New Orleans chơi với Bồng, con rể bác Đan Thọ, tôi được bác cho xem một cây đàn lạ mà bác mới mua được của một người Mỹ gốc Nga. Bác có cho tôi biết tên của cây đàn này, một lọai đàn riêng của sắc dân một nước nhỏ vừa tách rời nước Nga thời đó. Đàn có nhiều dây, cũng tương tự như đàn dương cầm nhưng không bấm phím mà lại gẩy bằng ngón. Tiếng đàn nghe rất ấm có lẽ vì có thùng đàn lớn và có thể chơi nhiều âm một lúc chứ không phải đơn âm. Cây đàn to và cồng kềnh quá, không biết các nhạc sĩ nước này sử dụng nhạc khí này thế nào, riêng tôi thì thấy không đủ sức khỏe và tầm vóc để chơi cây đàn này rồi.

Tháng 8 năm 2005, bão Katrina thổi ào vào New Orleans nhận chìm nhà bác và luôn cả cây đàn. Gặp bác ở Houston, hỏi thăm bác về cây đàn, bác với giọng rầu rầu bảo bác bị mất cây đàn ấy rồi. Cây violin mà bác quý hơn vàng Carlo Bergonzi làm từ năm 1741 cũng bị hư luôn. Bác Đan Thọ sở trường về violin và saxophone nhưng tài bác không dừng lại ở đó, mà bác đã viết hòa âm bài Dương Cầm cho violin và piano để hai ông cháu hòa tấu trong buổi tiệc sinh nhật của bác ở New Orleans. Bác thích thú phân tích với tôi từng khúc trong hòa âm bài này “làm sao cho cháu nó chơi được khúc này chứ”…

Cây đàn Nga này có một sức quyến rũ với tôi một cách đặc biệt, và cũng từ đó tôi ưa để ý đến những nhạc cụ dân tộc của từng xứ, nhất là những xứ Bắc Âu.

Cây đàn nhạc sĩ Đan Thọ bị mất trong trận bão Katrina là đàn bandura, một nhạc cụ dân tộc của Ukraine. Ngày xưa các nhạc sĩ hát dạo Ukraine dùng cây đàn này cùng với những bài ca và nhạc của họ làm công cụ truyền tải từ thế hệ này đến thế hệ khác những thiên hùng ca của dân tộc Ukraine chiến đấu chống Nga Hoàng và đảng Cộng Sản Nga. Các nhạc sĩ này, đa số khiếm thị, vì thế đã bị chính quyền Nga giết hại. Đàn bandura được coi như biểu tượng của Ukraine và có một âm sắc hết sức độc đáo. Cây đàn bandura ngày nay có 65 dây”.

Nhạc sĩ Lê Văn Khoa được ra mắt công chúng vào năm 2005 với dàn nhạc giao hưởng Kyiv Symphony Orchestra và Chorus của Ukraine, viết về cây đàn bandura “Nếu người Việt coi đàn tranh là nhạc cụ cổ truyền thì người Ukraine hãnh diện với cây đàn truyền thống bandura có âm thanh du dương không kém đàn tranh nhưng âm vực rộng hơn  so với ngũ cung trong đàn tranh”.

Nay nhạc sĩ Đan Thọ về với cát bụi cùng với những cây đàn đã một thời gắn liền với thú đam mê trong âm nhạc của ông nơi cõi vĩnh hằng. Ông đã ra đi để lại trong lòng mọi người hình ảnh đáng quý, trân trọng.

Ca khúc Chiều Tím tạo nên tên tuổi, với tôi thì ca khúc Tình Quê Hương điệu Tango Habanera, Tinh Hoa ấn hành năm 1956 đã in sâu trong thời chinh chiến:

 “Anh về qua xóm nhỏ,
Em chờ dưới bóng dừa.
Nắng chiều lên mái tóc,
Tình quê hương đơn sơ.

Quê em nghèo, cát trắng,
Tóc em lúa vừa xanh.
Anh là người lính chiến,
Áo bạc màu đấu tranh .
… Ngõ buồn màu hoang loạn
Quê nghèo thêm xác xơ…”.

Trong ca khúc Bóng Quê Xưa (1952) với nỗi niềm:

“Xa quê hương thân yêu
Với bao nhiêu tình thương”

Nhạc sĩ Đan Thọ không còn nữa nhưng tình cảm với mọi người và tình quê hương trong lòng người xa xứ khi nhớ về cố hương. Oliver Wendell Holmes, Sr nhà thơ, bác sĩ Mỹ vào tiền bán thế kỷ XIX nói: “Where we love is hometown, hometown that our feet may leave, but not our hearts” (Nơi chúng ta yêu là quê hương, quê hương là nơi đôi chân chúng ta có thể rời đi, nhưng trái tim thì không). Và, trái tim đó trong ca khúc của nhạc sĩ Đan Thọ cách nay bảy thập niên, sẽ mãi mãi.

Little Saigon, September 10, 2023

Vương Trùng Dương

********
Nhạc sĩ Đan Thọ, một đời cho nghệ thuật

Như nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “… nhạc của ông, vui hay buồn đều chừng mực, lãng mạn nhưng không có vẻ ủy mị, đắm đuối, và nhất là luôn toát ra vẻ lịch sự, sang trọng”, những nốt nhạc cung Fa trưởng mở đầu cho bản Chiều Tím của Đan Thọ rồi chuyển nhẹ sang Ré thứ với tiết điệu Valse Lente man mác hoài nhớ:

… Chiều tím chiều nhớ thương ai, còn thương nhớ hoài
Đàn ơi nhắn dùm người đi phương nao
Nếp chinh bào biếc ánh sao.

Chiều Tím, chính nhạc sĩ Đan Thọ cho biết, có lời ca do nhà thơ Đinh Hùng viết chứ không phải là thơ phổ nhạc, theo tác giả Nguyễn Đình Toàn ghi lại. Đan Thọ kể lại rằng, trong một bữa uống cà phê tại La Pagode, Đan Thọ đã đưa bản nhạc vừa viết xong của mình cho Đinh Hùng và Thanh Nam coi. Đinh Hùng nói, “moi biết chơi mandoline, để moi viết lời ca cho”. Khi Đinh Hùng viết xong lời ca, ba người gặp lại nhau, Thanh Nam đề nghị đặt tên là Chiều Tím. Ca sĩ trình bày Chiều Tím đầu tiên trên làn sóng điện là Anh Ngọc.

Đó là những kỷ niệm của nhạc sĩ Đan Thọ hơn nửa thế kỷ trước tại Saigon. Ông là một nhạc sĩ tài ba, chơi được nhiều loại nhạc cụ khác nhau, nhưng nổi tiếng nhất với ngón đàn violin điêu luyện và tiếng kèn saxophone điệu nghệ, mà trong số báo tuần này, sau nhiều tháng ngày ấp ủ, Thế Giới Nghệ Sĩ hân hạnh được vinh danh sự nghiệp âm nhạc của ông.

* * *

Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh ngày 21 tháng 6 năm 1924 tại Nam Định, Bắc phần. Cũng vào năm này, trường sư phạm Saint Thomas D’Aquin thuộc dòng Lasan khai giảng niên khóa đầu tiên tại Nam Định và hoạt động cho đến năm 1941 thì bàn giao cho dòng Đa Minh.

Đến tuổi trung học, Đan Thọ theo học tại trường Saint Thomas D’Aquin trong khoảng từ năm 1936 đến 1941. Lúc này, có sư huynh Maurice dạy Đan Thọ đàn vĩ cầm. Từng có một thời dưới mái trường Lasan, khi Trần Quốc Bảo tổ chức những đêm “Nhớ Ơn Thầy” trong thập niên 1990 tại vũ trường Ritz của Ngọc Chánh ở Nam California, nhạc sĩ Đan Thọ đều tham dự và vui vẻ trò chuyện với các frères dòng Lasan dù tuổi đời họ nhỏ hơn ông.

Từ năm 1942 đến 1945, Đan Thọ học hòa âm và sáng tác với các giáo sư Tạ Phước và Vũ Đình Dự. Năm Ất Dậu 1945, nhiều biến cố đời sống khó quên trong đời người nhạc sĩ vừa trưởng thành. Ông bắt đầu đàn violin cho phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng ở Nam Định. Cùng năm đó, ông lập gia đình với một thiếu nữ Hà Nội mới 16 tuổi, cho dù gia đình nàng Nguyễn Thị K. Thanh (sinh năm 1929) có phần e dè khi biết con gái sắp thành thân với một nhạc sĩ. Thế nhưng ông bà sống với nhau cho tới ngày nay răng long đầu bạc, cùng nuôi dạy nên người một con trai và ba con gái.

Nhạc sĩ cùng thời với Đan Thọ có Hoàng Trọng, Nhật Bằng, Hoàng Giác, Ngọc Bích, Canh Thân… Năm 1948, Đan Thọ gia nhập Ban Quân Nhạc Đệ Tam Quân Khu Hà Nội cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nhật Bằng… cho đến năm 1954 khi Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Trong thời gian này, ông được quân nhạc trưởng Schmetzler hướng dẫn về kèn. Ngoài những sinh hoạt trong ban quân nhạc, Đan Thọ cùng nhạc sĩ Nguyễn Túc từng trình diễn tại nhiều phòng trà ở Hà Nội.

Năm 1954, ban quân nhạc cùng gia đình ông di cư vào Nha Trang. Khi vào tới Saigon năm 1956, Đan Thọ được mời cộng tác ngay với vũ trường Đại Thế Giới, và ông tiếp tục trau giồi môn kèn với nhạc sĩ Mano Umali người Phi Luật Tân.

Nhà văn Bích Huyền, trong chương trình Câu Chuyện Thơ Nhạc phát thanh đầu năm 2010 trên Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA, đã giới thiệu những sáng tác thời kỳ mới di cư vào Nam của nhạc sĩ Đan Thọ:

Những nhớ nhung thương tiếc về nơi chốn cũ và những kỷ niệm dấu yêu được Đan Thọ ghi vào những tác phẩm của ông. Có người cho rằng, cứ nghe nhạc của một dân tộc, có thể biết được dân tộc đó có cuộc sống như thế nào, bởi vì âm nhạc không những phản ảnh những tình cảm gần gũi nhất của con người mà nó còn ghi lại những gì đang và đã xảy ra trong lịch sử của một dân tộc nữa. Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi biến cố 1954, đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta bị chia ra làm hai thì hầu như đa số các bài hát sáng tác trong thời gian đó đầy ắp tình hoài hương của các nhạc sĩ di cư từ Bắc vào Nam. Cùng với nhạc sĩ Xuân Tiên, Đan Thọ viết ca khúc Xa Quê Hương, và với Nhật Bằng, Đan Thọ viết Bóng Quê Xưa trong niềm đau chia cắt, trong niềm thương nhớ quê hương đất Bắc, nên mỗi bài nhạc viết ra đều thấm đẫm một nỗi buồn tình quê hương chan chứa trong lòng người ra đi…

Một trong những ca khúc nữa của Đan Thọ được nhiều người yêu mến, đọng lại trong lòng người nghe là Tình Quê Hương… Dù quê hương của mỗi người sinh ra hoặc lớn lên, ở đó có lẽ có một chút gì đó khác nhau. Nhưng có lẽ ở đất nước chúng ta, quê ai hình như cũng có một con đường làng, một dòng sông nhỏ, một con đê, những ao hồ, những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Và nơi đó hình ảnh mẹ già, người em nhỏ là những hình ảnh thương yêu nhất ở lại khi người chiến sĩ lên đường, cho nên bài thơ của Phan Lạc Tuyên được Đan Thọ chọn phổ nhạc cũng không là lạ, và bài hát Tình Quê Hương ấy là một bản tình ca thật là đẹp ca ngợi tình nước, tình riêng của âm nhạc Việt Nam…

Trước 1975 tại Saigon, Đan Thọ vô cùng bận rộn với sinh hoạt tại đài phát thanh, truyền hình và chơi nhạc hàng đêm ở các phòng trà. Đặc biệt, năm 1962 khi có lệnh cấm khiêu vũ, một ban nhạc của vũ trường Đại Nam tiên phong đổi qua trình diễn nhạc Jazz với thành phần nhạc sĩ nổi danh như: Văn Hạnh, Lê Văn Thiện, Huỳnh Anh, Đan Thọ. Riêng Đan Thọ có dịp cho khán giả Việt Nam thời đó thưởng thức tiếng kèn saxo quyến rũ của ông qua dòng nhạc Jazz tương đối mới mẻ với người thưởng ngoạn.

Cuối thập niên 1960 ông gia nhập ban Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh và tiếp tục trình diễn tại nhiều phòng trà, vũ trường cho tới ngày mất nước.

Gia đình Đan Thọ kẹt lại Việt Nam đến 1985 mới tới Hoa Kỳ, định cư ở California. Dù tuổi đã lục tuần, vợ chồng nhạc sĩ vẫn cần mẫn ngày ngày lái xe từ Quận Cam lên tận Van Nuys đi làm cho hãng General Ribbon. Đêm đêm vào cuối tuần, những âm giai luyến thương từ chiếc vĩ cầm hay cây kèn saxo của Đan Thọ lại cất lên trong vũ trường Ritz của người bạn âm nhạc lâu năm Ngọc Chánh, rưng rưng hoài niệm.

Ngày 30 tháng 6 năm 1995, nhạc sĩ Đan Thọ mở đêm nhạc từ giã bạn bè California về Louisiana đoàn tụ với gia đình con gái Đan Tâm và rể là bác sĩ Mùi Quý Bồng.
Bản nhạc cuối cùng Đan Thọ sáng tác dựa trên ý thơ Mùi Quý Bồng và cảm hứng khi thấy những ngón tay xinh xinh của cô cháu ngoại lướt trên phím dương cầm.

Nhà văn Bích Huyền đã giới thiệu về sáng tác này:
Qua ca khúc Dương Cầm, ta thấy hồn nhạc của Đan Thọ vẫn như xưa, vẫn nguyên nét quý phái và sang trọng, cho dù đã trải qua bao nhiêu là tang thương biến đổi vì từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Quá khứ mịt mùng đã lùi xa rồi. Trong cái quá khứ mịt mùng ấy là mấy từng sương khói và hình như chỉ có những thanh âm mới thắp sáng lên được hình bóng cũ. Trong cái thế giới mờ ảo đó, người ta tha thiết nhớ về những kỷ niệm một thời, nhất là một thời tuổi trẻ. Không có gì khơi dậy kỷ niệm trong lòng người bằng âm nhạc, bằng thơ ca…

Những tưởng an hưởng tuổi già với con cháu, năm 2005, trận bão Katrina quét qua New Orleans khiến ông bà Đan Thọ phải dạt về Florida lánh nạn ở nhà trưởng nam Đan Thành. Dịp này, người nhạc sĩ lại mất sạch những nhạc cụ ông yêu quý, trong đó có cây vĩ cầm đến hơn 250 tuổi và cây kèn saxo mạ vàng. Cơn bão qua đi, ông bà dọn về Houston, Texas, cùng nơi cư ngụ của các con gái cho đến ngày nay.

* * *

Thực hiện số báo vinh danh nhạc sĩ Đan Thọ là một dự định ấp ủ từ lâu của Thế Giới Nghệ Sĩ, nên trong dịp Trần Quốc Bảo trình diễn tại Houston dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong hồi cuối tháng 5, tòa soạn đã liên lạc để gặp bác sĩ Mùi Quý Bồng hầu thu thập tài liệu cho số báo này. Chỉ tiếc thời gian lưu lại Houston quá ngắn và sức khỏe tác giả Chiều Tím không cho phép, nên Trần Quốc Bảo và Ông Thụy Như Ngọc chưa tiện ghé thăm ông vào dịp đó.

 Tuy nhiên, số báo được hoàn tất với sự giúp đỡ tận tình của gia đình, đặc biệt Thế Giới Nghệ Sĩ xin tri ân vị trưởng nam là kiến trúc sư Đan Thành, con rể là bác sĩ Mùi Quý Bồng, cháu ngoại là ký giả Mùi Quý Y Lan (đài CNBC, trước đây viết cho tờ Washington Post) đã đóng góp bài vở, hình ảnh. Vừa là một nhà thơ vừa là họa sĩ, bác sĩ Mùi Quý Bồng đã vẽ chân dung nhạc sĩ Đan Thọ và cây đàn vĩ cầm ông hằng yêu quý để làm hình bìa tuần này.

Cuối tuần qua, cơn bão Harvey trút những trận mưa lớn làm ngập lụt toàn thành phố Houston. Thế Giới Nghệ Sĩ mong rằng quý độc giả, thân hữu Houston được bình an qua cơn bão lớn. Cũng mong rằng hệ thống giao thông và bưu chính Houston không bị đình trệ lâu vì thời tiết để số báo này đến tay quý vị, nhất là nhạc sĩ Đan Thọ và gia đình đúng vào dịp nghỉ Lễ Lao Động đầu tháng 9. Riêng nhạc sĩ Đan Thọ, Thế Giới Nghệ Sĩ kính chúc ông trường thọ, hạnh phúc bên con cháu sau một đời dành trọn cho âm nhạc.

(trích bài Thế Giới Nghệ Sĩ đăng trong tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 134 phát hành ngày 1 tháng 9 năm 2017)

Bác sĩ, nhà thơ, họa sĩ Mùi Quý Bồng và Trần Quốc Bảo và những mẫu chuyện kỷ niệm về nhạc sĩ Đan Thọ trong lần gặp gỡ tại Houston chiều 26/5/2017
Nhạc sĩ Đan Thọ đang vui mừng trò chuyện với frère Cosme Tuân và frère Trần Trọng An Phong trong đêm Lasan Hội Ngộ “Nhớ Ơn Thầy” kỳ 3 do Trần Quốc Bảo tổ chức ngày 26 tháng 12 năm 1990 tại vũ trường Ritz của NS Ngọc Chánh (Photo: TQB)

*****

MỘT SỐ NHẠC PHẨM

CHIỀU TÍM – Nhạc: Đan Thọ; lời: Đinh Hùng

TÌNH QUÊ HƯƠNG – Nhạc: Đan Thọ; lời: thơ Phan Lạc Tuyên – Tiếng hát: Mai Hương
https://www.youtube.com/watch?v=EJp8Dc9RgYo

DƯƠNG CẦM – Nhạc: Đan Thọ; lời: ý thơ Mùi Quý Bồng – Tiếng hát: Thái Thảo
https://www.youtube.com/watch?v=_UhYfAoQ7B8

THU LY HƯƠNG – Sáng tác: Nhật Bằng & Đan Thọ; Tiếng hát: Tâm Hảo
https://www.youtube.com/watch?v=mSm2A-oazlc

XA QUÊ HƯƠNG – Sáng tác: Đan Thọ & Xuân Tiên; Tiếng hát: Thái Thanh
https://www.youtube.com/watch?v=e08M81qOrJY

BÓNG QUÊ XƯA – Sáng tác: Nhật Bằng & Đan Thọ; Tiếng hát: Thanh Thúy
https://www.youtube.com/watch?v=EYoftbdo41Y

BÓNG CHIẾN Y – Sáng tác: Đan Thọ; Tiếng hát: Kim Tước
https://www.youtube.com/watch?v=hisEDvWoNCU

MIMOSA THÔI NỞ – Nhạc: Đan Thọ; Lời: thơ Nhất Tuấn – Tiếng hát: Duy Quang
https://www.youtube.com/watch?v=zO7VFwNLmZM

******
NGHỆ SĨ HẢI NGOẠI CHÀO ĐÓN NS ĐAN THỌ ĐẾN HOA KỲ NĂM 1985
https://www.youtube.com/watch?v=eGfMbw93Lao

Vào năm 1985, để đón mừng nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi & nhạc sĩ Đan Thọ đến định cư tại Hoa Kỳ. Nhạc sĩ Phạm Duy, ca sĩ Thanh Thuý & Khánh Ly cùng với một số nghệ sĩ hải ngoại đã tổ chức 1 buổi văn nghệ đặc biệt để đón chào 2 vị nhạc sĩ đến được bến bờ Tự Do tại khiêu vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh. Buổi văn nghệ này Theo lời nhạc sĩ Phạm Duy là “30 năm mới có 1 lần”. Nếu để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều văn nghệ sĩ đến tham dự như: Nghệ sĩ Bích Thuận, ca sĩ Thái Hằng, nhà văn Mai Thảo, tài tử Kiều Chinh, nhạc sĩ Lê Văn Thiện, nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan, nhà văn Hồng Dương, ca sĩ Giao Linh, Sơn Ca, Huyền Châu, Vũ Khanh, …. Phần cuối clip là tiết mục song ca của cô Khánh Ly và ông Hoài Bắc Phạm Đình Chương trong bài Ngợi Ca Tình Yêu.

*****

MỘT SỐ HÌNH ẢNH

BAN NHẠC HOÀNG TRỌNG – Từ trái: Kim Tước, Mộc Lan, Châu Hà, Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đan Thọ … hàng sau là Văn Phụng, Hoàng Lang, Xuân Tiên …
Thanh Thúy, Cao Phi Long, Đan Thọ
Ôn Văn Tài, Thanh Thúy, Đan Thọ, Lê Văn Thiện
Đan Thọ, Văn Phụng
Four Old Friends Band – Đan Thọ, Văn Phụng, Nguyễn Túc, Nhật Bằng
Nguyễn Túc, Dương Ngọc Hoán, Nhật Bằng, Đan Thọ, Văn Phụng
Đan Thọ, Anh Ngọc, Mai Hương, Nhật Bằng
Ngọc Chánh Shotguns, Đan Thọ
Đan Thọ và Phan Đình Minh, Doãn Quốc Sỹ, Văn Quang và Phan Lạc Tuyên

****
Có chăng mùi hương trong tiếng đàn vĩ cầm Đan Thọ?

Đan Thọ, Tiếng Vĩ Cầm, Mùi Hương và, Kỷ Niệm.

Nhìn lại sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam, một số nhà nghiên cứu cho rằng, cuộc di cư khổng lồ của hơn một triệu người miền Bắc vào Nam, đã thổi ngọn lửa đổi mới, rực rỡ lớn cho sinh hoạt VHNT ở vùng đất trù phú, êm ả này.

Một số người khác, lại ví von rằng, sự thay da đổi thịt của sinh hoạt văn nghệ miền Nam, tựa như một cuộc cách mạng quyết liệt, lay động, đổi thay tận gốc rễ sinh hoạt văn nghệ của miền đất mới

Ở lãnh vực tân nhạc, người ta ghi nhận sự xuất hiện của hàng hàng, lớp lớp những tác giả trẻ mà, Trịnh Công Sơn, được coi là một hiện tượng đặc biệt. Bên cạnh đó, những tên tuổi khác như Nguyễn Đức Quang, Anh Việt Thu, Vũ Thành An, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên… đã đóng góp phần của họ, để làm thành cái được gọi là “đợt sóng mới”. Đó là thế hệ nhạc sĩ khởi nghiệp ở điểm mốc giữa hoặc cuối thập niên 1960s.  

Nhạc sĩ Đan Thọ (trái) và nhà thơ Du Tử Lê (Hình: HanhTuyen)

Tuy nhiên, thực tế, những “đợt sóng mới” này vẫn không thể làm lu mờ, hay đẩy lùi sự chói lòa những tên tuổi lớn thuộc thế hệ tiền chiến hoặc, khởi nghiệp từ những năm đầu thập niên (19)50 như Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Tuấn Khanh, Y Vân, Hoàng Thi Thơ, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Nguyễn Văn Đông, Nhật Bằng v.v… tiếp tục hiện diện ở miền Nam. Phải chăng đó là một trong những điểm đặc thù của dòng tân nhạc miền Nam 20 năm?

Giống như lãnh vực thi ca, khi một nhạc sĩ thuộc thế hệ trước 1954 đã định hình thì, vị trí của họ là vị trí bất biến. Kể cả những nhạc sĩ có số lượng tác phẩm không nhiều lắm. Nhưng, nếu ca khúc của họ, đã được quần chúng đón nhận thì chúng là những viên ngọc bất hoại. Đó là những tác phẩm đã vượt qua được vạch phấn thời gian. Sống còn sau thử thách bởi những ngọn lửa vùi dập, lãng quên mau…

Nằm trong trường hợp vừa kể, ở lãnh vực thi ca, người ta thấy có nhiều thi sĩ chỉ cần để lại cho đời một bài thôi, cũng đã đủ thành bất tử. Tỷ như Vũ Đình Liên với bài thơ “Ông Đồ Già”; Hữu Loan với “Mầu Tím Hoa Sim”… Về phía tân nhạc, chúng ta có một Nguyễn Văn Tý với “Dư Âm”. Một Nguyễn Văn Khánh với “Nỗi Lòng”. Một Lê Hoàng Long với “Gợi Giấc Mơ Xưa”. Một Vũ Thành với “Giấc Mơ Hồi Hương” hoặc, một Hoàng Dương với “Hướng Về Hà Nội”…

Hiện tượng này, cũng ứng hợp với nhạc sĩ Đan Thọ – – Tác giả của hai ca khúc đã sớm trở thành những viên ngọc quý của kho tàng tân nhạc miền Nam. Đó là ca khúc “Tình Quê Hương” phổ từ thơ Phan Lạc Tuyên và, “Chiều Tím” lời của Đinh Hùng.  

(Theo tư liệu của Hồ Đình Vũ, với 1 bản nhạc lẻ “Chiều Tím”, in tại Saigon tháng 6 năm 1968, có ghi rõ: “Chiều Tím, nhạc và lời Đan Thọ – Đinh Hùng”. Theo lời kể của nhạc sĩ Đan Thọ thì, ở phần ca từ lời hai, Thi sĩ Đinh Hùng đã viết ngay phần mở đầu:

“Từ đấy đàn nhớ thanh âm trùng dây vĩ cầm…” trước khi dòng nhạc đi tiếp với những lời thật đẹp, như thơ, nồng nàn hương tình yêu mà tiếng đàn vĩ cầm của Đan Thọ giữ được và, gửi vào tâm hồn người thưởng ngoạn:

“Người xa vắng rồi chiều sang em ơi!
Thương ai hoa rơi lá rơi…

Người ấy lòng hướng trăng sao, hồn say chiến bào
Tìm trong tiếng đàn… mùi hương chưa phai
Ý giao hòa người nhớ chăng?

Mây gió… bốn phương giăng hàng
Mùa thu thêu áo nét hoa mơ màng
Và em với chàng kề vai áo… vấn vương

Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu
Người đi hướng nào? Tìm trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi…” (2)


Căn cứ theo tiểu sử do website Đất Việt.com ghi lại thì, nhạc sĩ Đan Thọ sinh năm 1924 tại Nam Định. Ông sở trường Violon và Saxophone Tenor. Từ năm 1936 tới 1942, ông học chữ và nhạc tại trường Thầy Dòng Saint Thomas d’ Aquin (Nam Định). Thầy dạy violon là Frère Maurice. Sau đấy, từ năm 1942 tới 1945, ông học hòa âm, và sáng tác với giáo sư Tạ Phước cùng Vũ Đình Dự. Ngay trong năm 1945, ông đã được mời chơi đàn violin tại phòng trà Thiên Thai của nhạc sĩ Hoàng Trọng (Nam Định). Từ năm 1948 tới năm 1954 ông gia nhập Ban Quân Nhạc Đệ Tam Quân Khu Hà Nội cùng với các nhạc sĩ Nguyễn Túc, Nhật Bằng, Văn Phụng, Nguyễn Khắc Cung, Nguyễn Cầu, Nguyễn Hiền…

Hai nhạc phẩm đầu tay của ông (sáng tác chung với cố nhạc sĩ Nhật Bằng), nhan đề “Bóng Quê Xưa” và “Vọng Cố Đô” sáng tác năm 1952. Năm 1956, ở Saigon, ông trở lại học thêm về kèn Saxophone với Quân-Nhạc- trưởng Schmetzler và nhạc sĩ Phi Luật Tân Mano Umali. Năm 1954 tới 1956, khi ban quân nhạc di cư vào Nha Trang, ông sáng tác ca khúc bất tử “Tình Quê Hương…

Năm 1956 và 1961, với tư cách Trưởng Ban Nhạc Nhẹ của Đài Phát Thanh Tiếng Nói Quân Đội ông được cử vào phái đoàn nghệ sĩ của miền Nam, đi trình diễn tại Bangkok và Manila.

Như một số nhạc sĩ cùng thời với mình, hằng đêm, nhạc sĩ Đan Thọ trình diễn ở nhiều phòng trà, vũ trường… Ông cũng thu thanh tiếng đàn vĩ cầm của ông cho các đài phát thanh và, vô tuyến truyền hình quốc gia.

Được con bảo lãnh qua Hoa Kỳ, tháng 3 năm 1985, ông có nhiều năm định cư tại miền Nam California. Trước khi di chuyển về lại thành phố New Orleans và, hiện nay là Houston, Texas.

Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer. Bên cạnh đó, ông còn có thêm một thú vui êm đềm khác là nuôi chim hoàng anh.

Bản chất vốn chí tình, cởi mở với bằng hữu, tác giả “Chiều Tím” không ngần ngại truyền thụ nghệ thuật nuôi chim hoàng anh,  cho bất cứ ai có ý muốn bước vào thú nuôi chim tại nhà, nhẹ nhàng kia. Hơn thế nữa, để khuyến khích, ông cũng sẵn sàng tặng cho bằng hữu, những cặp chim hoàng anh tốt nhất, ra đời từ “trại hoàng anh tại gia” của ông. (3)

Tôi không biết tác giả “Tình Quê Hương” có tìm thấy mối tương quan nào chăng giữa tiếng hót của chim hoàng anh và, tiếng vĩ cầm sớm đi vào ca khúc của ông? Nhưng, tôi trộm nghĩ, cách gì thì nơi thẳm sâu tâm hồn người nhạc sĩ tài hoa, nặng lòng với quê hương này, vẫn mãi là:

“… Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu
Người đi hướng nào? Tìm trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi…”

Đan Thọ – Khi ‘chùm dây vĩ cầm’ nổi trôi theo vận nước lênh đênh

Bản chất tác giả “Tình Quê Hương,” là một người chọn cho mình một đời sống ngăn nắp, nghiêm chỉnh. Nhưng cũng như nhiều người khác, định mệnh cá nhân tức biệt nghiệp và, định mệnh chung của đất nước, tức cộng nghiệp, đã ném người nhạc sĩ tài hoa Đan Thọ vào những gập ghềnh thời sự gió bão!

Đan Thọ và Doãn Quốc Sỹ ở Houston, 2006 (amnhac.fm)

Trong một bài phát thanh trên đài VOA vào trung tuần tháng 3 năm 2003, nhà báo Trường Kỳ đã ghi nhận khá đầy đủ về phần đời trôi nổi của nhạc sĩ Đan Thọ. Qua trích đoạn dưới đây, những người yêu mến dòng nhạc trữ tình của Đan Thọ, mới được biết thêm rằng, tác giả “Chiều Tím” không chỉ nổi tiếng như một vĩ cầm thủ mà, ông còn nổi tiếng với tiếng kèn saxo và nhạc Jazz nữa:

“Trong lãnh vực vũ trường, Đan Thọ là một trong những nhạc sĩ kỳ cựu nhất. Trước ngày đất nước chia đôi, ông đã từng với nhạc sĩ Nguyễn Túc trình diễn tại nhiều phòng trà ở Hà Nội. Vừa vào đến Sài Gòn, ông đã được mời cộng tác ngay với vũ trường ‘Grand Monde’ tức ‘Đại Thế Giới’. Năm 57 ông qua vũ trường Đại Nam cộng tác với ban nhạc gồm nhiều nhạc sĩ nổi tiếng.

“Đến năm 62, vì lệnh cấm khiêu vũ nên ban nhạc này đổi qua trình diễn nhạc Jazz với một thành phần gồm các nhạc sĩ nổi danh như: Văn Hạnh, Lê Văn Thiện và Huỳnh Anh. Đối với khán giả Việt Nam thời đó, trình diễn nhạc Jazz là một điều mới mẻ. Do đó ban nhạc của vũ trường Đại Nam đã lôi cuốn được rất nhiều người đến thưởng thức.

“Một thời gian sau ông về vũ trường ‘Croix Du Sud’, sau đó đổi tên là ‘Tự Do’. Tại đây ông cộng tác với các nhạc sĩ Hoài Trung, Hoài Bắc cùng với Lê Văn Thiện, Huỳnh Anh, Nguyễn Văn Thanh, Văn Ba, vv… Sau đó ông được giải ngũ vào năm 1969 để sang cộng tác với vũ trường Mỹ Phụng cho đến năm 72 và sau đó là phòng trà Bồng Lai.

“Tại miền Nam trước biến cố tháng 4 năm 75, trong rất nhiều năm, bóng dáng Đan Thọ với cây vĩ cầm hoặc với cây kèn saxo đã là một hình ảnh quen thuộc với những người lui tới các phòng trà và vũ trường về đêm (…)

“Sau năm 75, Đan Thọ cộng tác với ban nhạc của Đoàn Kịch Nói Kim Cương gồm trên 10 nhạc sĩ. Trong đó, ngoài ông, còn có những nhạc sĩ Xuân Tiên, Lâm Thoại Nguyên, Ngọc Chánh, Lê Văn Thiện, Phạm Văn Phúc, Đài Trang, Đặng Văn Hiền, vv… Ông từng cùng với Đoàn Kịch Nói Kim Cương ra Hà Nội trình diễn vào năm 1980 trong vòng một tháng với nhiều thành công tốt đẹp.

“Trong thời gian còn ở lại Việt Nam, ông đã cùng với ban nhạc này đi diễn ở nhiều nơi như Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, vv… Cho đến năm 80 ông quyết định xin nghỉ. Có thể nói đúng hơn là nhạc sĩ Đan Thọ đã không còn tìm thấy được nguồn vui trong nghệ thuật sau khi ông ngưng cộng tác với đoàn Kim Cương vào năm 1980, để sau đó ông dành cả thì giờ của mình cho gia đình cùng với thú nuôi chim của ông và đã từng đoạt giải thưởng…” (dongnhacxua.com) (4)

Với những người bị kẹt lại Saigon, sau biến cố 30 tháng 4-1975, đều hiểu rằng, để có được một việc làm không thôi, khoan tới tới việc làm có dính dáng gần xa tới chuyên môn hay nghề cũ của mình, nó khó khăn không kém gì đường lên… trời…

Vậy mà tác giả “Tình Quê Hương” đã quyết định dứt bỏ công việc phù hợp hoàn toàn với nghề cũ của ông.

Cá nhân tôi cho rằng, đó là một quyết định liều lĩnh, can đảm. Phần nào, nói lên tư cách của người nhạc sĩ tài hoa này, trong thời điểm ngặt nghèo bi kịch của đất nước. Một chọn lựa không phải ai cũng có thể làm được, khi ở vị trí của ông.

“Tuy không còn đi lưu diễn nhưng Đan Thọ chưa có thể xa rời sân khấu. Mặc dù sống dưới những sự đổi thay của xã hội, nhưng thời gian này đối với ông có những kỷ niệm khó quên. Cùng với nhạc sĩ Cao Phi Long và một số nhạc sĩ khác như Trí, Hòa, vv…, ông được mời cộng tác với vũ trường Maxim’s ở trên lầu.

“Tại địa điểm này Đan Thọ và các nhạc sĩ trong ban đã khiến khán giả thích thú với nghệ thuật trình bầy loại nhạc Zigane, trong số có rất nhiều khán giả người ngoại quốc thuộc các nước xã hội chủ nghĩa. Đêm cuối cùng trước khi ngưng cộng tác với Maxim’s để ngày hôm sau rời khỏi Việt Nam, phái đoàn Hungary thường đến nghe ban nhạc của ông biểu diễn đã mang hoa lên tặng ông và hôm sau còn đến tận nhà ông tặng thêm, vì ban nhạc thường đàn bài ‘Danse Hongroise No 5’ của Brahms rất được người Hungary ưa thích…” (5)

Tôi trộm nghĩ, có dễ trong số những người yêu mến dòng nhạc trữ tình của nhạc sĩ Đan Thọ, cũng ít ai biết ngoài vĩ cầm, đã trở thành một thứ ID, thẻ nhận dạng tài hoa Đan Thọ, ông còn là một hảo thủ nhạc Jazz, một lãnh vực âm nhạc, tương đối xa lạ với người Việt thời trước tháng 4-1975.

Cũng nhờ tiếng saxo (trái tim đằm thắm nhất của nhạc Jazz) mà, nhạc sĩ Đan Thọ cùng gia đình, trên nguyên tắc, từ trại tỵ nạn, sẽ đi định cư tại vùng Hoa Thịnh Đốn, do hồ sơ bảo lãnh bởi em người bạn đời của ông thì, cuối cùng, ông đã được phái đoàn Mỹ cho ông đổi từ Washington DC về New Orleans, chiếc nôi nhạc Jazz của thế giới.

Tuy được New Orleans, quê hương nhạc Jazz chào đón, như một đứa con thương yêu trôi dạt tới từ bên kia Thái Bình Dương; nhưng vì nhớ bạn, nhớ không khí vũ trường, hai nhu cầu sinh hoạt tinh thần quan trọng một đời mình, cuối cùng nhạc sĩ Đan Thọ lại di chuyển về miền nam California.

Tại miền đất ấm này, người nhạc sĩ gương mẫu của gia đình, đằm thắm với bằng hữu, dù đã bước qua tuổi 60, vẫn ban ngày, đi làm, cuối tuần, cùng một số bằng hữu thân thiết từ thời Việt Nam, ông trở lại sân khấu với cây violin và saxo cho vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh.

Tiếng vĩ cầm cũng như saxo của ông, không chỉ làm thức dậy những kỷ niệm một thời Saigon của những khách chơi lịch lãm thuở xưa mà, còn trải những thảm hoa rung động, lắng xuống chiều sâu tâm hồn lớp khách trẻ nữa.

Năm 1995, nhạc sĩ Đan Thọ tuyên bố giải nghệ trong một buổi sinh hoạt văn nghệ đặc biệt tại Vũ trường Ritz. Ông cho biết, sự cống hiến một đời cho âm nhạc của ông, tới thời điểm đó là quá đủ. Tuổi tác, sức khỏe không cho phép ông “trụ” lâu hơn trên sân khấu, dưới ánh đèn màu.

Cuộc chia tay với sân khấu và ánh đèn của tác giả ca khúc “Tình Quê Hương” gây xúc động sâu xa cho hàng trăm tân khách. Khi màn nhung khép lại, bóng tối nhạt đi, chuyển dần sang ngày kế tiếp, một không khí bùi ngùi, bịn rịn đã diễn ra giữa người nhạc sĩ tài hoa và, các tân khách tưởng chừng không có phút chấm dứt!…!

Nhưng cùng lúc đó, ở một nơi khác, trong căn nhà ngăn nắp thuộc thành phố Garden Grove, có một người phụ nữ vẫn chong đèn đợi chồng về. Đó là người bạn đời của tác giả “Chiều Tím.”

Đan Thọ, “những hạt giống đất  trời trong tâm hồn nhiều thế hệ.

Nhắc tới người phụ nữ mấy chục năm liên tiếp, chong đèn cuối khuya, đợi chồng – – Bà Đan Thọ, trong một bài viết về bà, cố nhà báo Trường Kỳ đã ghi nhận như sau:

“Nhớ lại khoảng thời gian dài hoạt động không ngưng nghỉ của người chồng nghệ sĩ, bà Đan Thọ cũng đã phải khâm phục sức làm việc của ông. Điều đó cũng đã chứng tỏ được sự thông cảm lớn lao của bà khi Đan Thọ dấn thân vào con đường phục vụ âm nhạc.

“Đáng ghi nhận hơn cả là thời gian ông còn ở Sài Gòn: ‘Chưa bao giờ ông ấy có mặt ở nhà trước 2 giờ sáng… Từ sáng cho đến 2 giờ đêm, ông ấy ở đâu chứ không ở nhà’. Với một vẻ âu yếm, bà nói thêm ‘Ông ấy muốn làm gì ông ấy cứ việc làm, nhưng mà 2 giờ tôi cứ ngồi đợi cửa. Không bao giờ tôi đi ngủ trước, mấy chục năm như vậy. Thành ra ông ấy đâu có dám đi đâu vì biết tôi ngồi đợi cửa mà!’ Lời kể của bà Đan Thọ.

“Một điều không ai ngờ là trong suốt quá trình hoạt động của Đan Thọ, hầu như chưa hề ai thấy mặt vợ ông tại vũ trường cũng như tại các đài phát thanh ông cộng tác. Hai vợ chồng nhạc sĩ Đan Thọ hiện đang hưởng những chuỗi ngày nhàn hạ, nương tựa nhau trong lúc xế chiều tại Houston với sự thường xuyên liên lạc hay gặp gỡ con cháu từ Tampa đến Houston.

“Khá nhiều bạn bè nghệ sĩ cùng thời với ông đã nhắm mắt xuôi tay. Riêng Đan Thọ còn đây trong những buổi chiều tím của cuộc đời. Chắc hẳn người nhạc sĩ lão thành đang mỉm cười mãn nguyện với những gì ông đã cống hiến cho nền âm nhạc Việt Nam, trong vai trò một nhạc sĩ sáng tác và nhất là một nhạc sĩ trình diễn bên cạnh cây vĩ cầm, giờ đây đã im tiếng. Còn chăng chỉ còn là vang vọng dư âm của những ngày xưa cũ…” (6)

Tôi vẫn nghĩ, nếu có những “im tiếng” hiểu theo nghĩa bặt tăm, như lẽ tự nhiên của một đời người thì, quanh đời sống ta, cũng có những “im tiếng” nghịch lý. Tôi muốn nói tới những trường hợp chính sự “im tiếng” về phương diện thực tế ấy, lại giúp cho những tiếng nói khác sáng lên. Đằm thắm hơn. Rực rỡ hơn. Ý nghĩa hơn. Và, vì thế, những tiếng nói khác đó, lại nhận được nhiều hơn, những biết ơn, từ phía đám đông: Những người đứng ở mặt bên kia của sự “im tiếng.”

Cụ thể, ta thấy sự “đi xa” của các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Trần Thiện Thanh, Trầm Tử Thiêng, Nguyễn Đức Quang v.v… khiến khi nghe lại sáng tác của họ, dường như ta thấy chúng hay hơn, cảm động hơn… Tâm lý này cũng đến với những người hôm nay, đọc lại thơ của những tên tuổi như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Mai Thảo…

“Trùng dây vĩ cầm” của chúng ta, khác hơn. Ông hiện còn và, có thể sẽ còn ở với những người yêu ca khúc của ông, nhiều chục năm nữa. Nhưng “Chiều Tím”, “Tình Quê Hương” là hai ca của ông, sẽ lấp lánh, ngọt ngào hơn, khi tiếng vĩ cầm của ông đã không còn vang dội đêm thâu…

Tôi nghĩ, nói tới thơ phổ nhạc là nói tới tính gắn bó giữa thi ca và âm nhạc, như một cặp song sinh có chung một định mệnh. Hầu như, các nhạc sĩ của chúng ta, chí ít cũng đôi lần tìm đến thi ca, như tìm đến người tình lý tưởng, trong định mệnh âm nhạc của đời họ.

Lại nữa, nếu có những bài thơ đã được một nhạc sĩ nào đó, soạn thành ca khúc thì, điều đó, không có nghĩa là sẽ không có một hay nhiều nhạc sĩ khác tìm đến, để thi triển võ công mình. Nhưng, vẫn theo tôi, lịch sử thơ phổ nhạc của chúng ta cũng cho thấy, có những bài thơ một khi đã trở thành ca khúc thì không còn một nhạc sĩ nào muốn tìm tới nữa. Nếu đó là một phối ngẫu tuyệt hảo giữa thơ và nhạc. Điển hình như không một nhạc sĩ nào còn muốn thi thố võ công của họ với “Ngậm Ngùi”! Khi lục bát Huy Cận đã bị Phạm Duy “chặn cửa”. Hoặc một “Chiều”, thơ 5 chữ của Hồ Dzếnh, “đã bị Dương Thiệu Tước, “chặn cửa”. Mộng Dưới Hoa” thơ 7 chữ của Đinh Hùng, đã bị Phạm Đình Chương… “Khóa sổ.”

Tại sao? Câu trả lời có dễ vì những kết hợp kia không chỉ đạt tới mức cao nhất của một hôn phối tuyệt hảo mà, mỗi nốt nhạc của những tài hoa vừa kể đã nhập được vào hồn riêng của từng con chữ thi ca.

Câu trả lời này, cũng giải mã phần nào sự ngừng chân, đứng lại của các nhạc sĩ khác trước “Tình Quê Hương” của Đan Thọ.

Đan Thọ phổ nhạc thơ, hoặc hợp tác với một thi sĩ để làm lời, vốn không nhiều. Nhưng nếu:

Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian
Mây bay quan san, có hay?

Đàn nhớ từng cánh hoa bay, vầng trăng viễn hoài
Màu xanh ước thề, dòng sông trôi đi

Lúc chia tay còn nhớ chăng?

Ai nhớ… mắt xanh năm nào
Chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu
Kề hai mái đầu nhìn mây tím… nhớ nhau

Chiều tím chiều nhớ thương ai, còn thương nhớ hoài
Đàn ơi nhắn dùm người đi phương nao
Nếp chinh bào biếc ánh sao
…” (7)

Cho thấy giai điệu đã choàng thêm nhiều vòng hoa lãng mạn cho gốc cây lãng mạn của ca từ (như thơ); đưa niềm thương nhớ tới những chân trời bát ngát hoa bay, cùng vầng trăng xa xôi và, dòng sông trôi đi, mang theo mọi hy vọng của lời thề nguyền lúc chia tay của đôi tình nhân… Thì ở ca khúc “Tình Quê Hương”:

Anh về qua xóm nhỏ,
Em chờ dưới bóng dừa.
Nắng chiều lên mái tóc,
Tình quê hương đơn sơ.

Quê em nghèo, cát trắng,
Tóc em lúa vừa xanh.
Anh là người lính chiến,
Áo bạc màu đấu tranh .

Em mời anh dừng lại,
Đêm trăng ướt lá dừa,
Bên nồi khoai mới luộc,
ngát hương vườn ngâu thưa
Em hẹn em sẽ kể:
Tình quê hương đơn sơ

Mẹ già như chiều nắng,
Nhớ con trai chưa về,
Ruộng nghèo không đủ thóc
Vườn nghèo nong tằm thưa
Ngõ buồn màu hoang loạn

Quê nghèo thêm xác xơ…” (8)

Lại hiến tặng cho người nghe một giai điệu thiết tha khác. Cái thiết tha thắm đậm tính chất đơn sơ của khung cảnh thôn dã. Cũng là “đêm trăng” cũng là “lời hẹn”, cũng là “hương thơm” một tình yêu… Nhưng đó là “Đêm trăng ướt lá dừa” và, “bên nồi khoai mới luộc”. Cũng là “Em hẹn em sẽ kể” – – Nhưng đó là lời hẹn kể về một tình yêu hay “Tình quê hương đơn sơ” (?) Và, cũng là “ngát hương”, nhưng đó là hương của “vườn ngâu thưa”- – Không phải là mùi hương trong hồi tưởng… “tìm trong tiếng đàn… mùi hương chưa phai” (ở Chiều tím).

Đó là hai khía cạnh đời sống tinh thần, vốn luôn hiện hữu trong tâm hồn dân tộc Việt. Nhưng sự khác biệt của hai ca khúc này, giống như trời và đất!.

Bằng vào tài hoa của mình, nhạc sĩ Đan Thọ đã thả những hạt giống “trời/ đất” kia sâu trong tâm hồn nhiều thế hệ.

DU TỬ LÊ

(Garden Grove, July 18-2013)
________
Chú thích:
(1) Trích lại từ Wikipedia.
(2) Dactrung.com
(3) Một trong những người nhận được sự hướng dẫn và cung cấp chim hoàng anh là nguyên luật sư Đỗ Xuân Hòa, thời họ Đỗ còn mở văn phòng chuyên về pháp lý ở khu phở Nguyễn Huệ, đường Bolsa, thuộc thành phố Westminster, nam Cali
(4), (5), (6), (7), (8) Nđd.

*****
Xa quê hương… đã bao lần

Trong trận bão Katrina vừa rồi, một người tại New Orleans đã mất hết. Nhưng lại chỉ tiếc cây đàn vĩ cầm và cái kèn saxophone.Nói rằng ông tiếc vì là kỷ vật nửa thế kỷ của một nhạc sĩ thì ta có thể thông cảm. Nhưng nếu biết người ấy là Ðan Thọ thì mọi người đều xót xa. Quỳnh Giao xin viết về ông, như một lời thăm hỏi gửi từ rất xa, và nhắc đến ông như một người đã xa quê hương quá nhiều lần.

Năm ngoái, khi chuẩn bị đĩa nhạc đánh dấu 30 năm xa quê hương, Quỳnh Giao đã trước tiên chọn “Xa Quê Hương” của Ðan Thọ. Ðây không chỉ vì tựa đề của ca khúc mà vì Ðan Thọ là một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc hoài hương của tân nhạc.

Ðan Thọ có mặt trong số nhạc sĩ di cư từ miền Bắc vào Nam, như Thẩm Oánh, Phạm Duy, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Phạm Ðình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Tuấn Khanh. Lúc ấy, bài “Tình Quê Hương” do ông phổ nhạc từ thơ Phan Lạc Tuyên đã làm mọi người rơi lệ. Thời ấy, những ca khúc của ông viết cùng Nhật Bằng, như “Bóng Quê Xưa” hay “Vọng Cố Ðô” càng làm nghẹn ngào nỗi nhớ quê.

Khi các nghệ sĩ di cư từ miền Bắc đã vui sống tại miền Nam tự do và viết về tình yêu hay chiến tranh, thì Ðan Thọ và Nguyễn Hiền vẫn có một chỗ đứng riêng trong loại tình ca êm đềm về quê hương đã khuất bên kia vĩ tuyến. Bài “Xa Quê Hương” được Ðan Thọ viết cùng Xuân Tiên trong thời kỳ này.

Ông gắn bó với quê hương đến cùng, mãi tới 1985 mới đành gạt lệ ra đi, khi đã trên lục tuần.

Cùng với Hoàng Trọng, Ðan Thọ xuất thân từ đất Nam Ðịnh vốn có nhiều tài năng về nghệ thuật và cùng chung một khuynh hướng lãng mạn. Ông tên thật là Ðan Ðình Thọ, sinh năm 1924, học chữ và học nhạc từ trường đạo Saint Thomas d’Aquin tại Nam Ðịnh rồi học đàn, hòa âm và sáng tác trước khi trở thành tay vĩ cầm trẻ trong phòng trà Thiên Thai của Hoàng Trọng tại Nam Ðịnh. Năm 1948, ông gia nhập ban Quân Nhạc Ðệ Tam Quân Khu Hà Nội, cùng với các tên tuổi khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Nguyễn Cầu, Nhật Bằng, Nguyễn Khắc Cung. Trong thời gian này, ông học saxophone với quân nhạc trưởng Schmetzler, từ đó sở trường về cả violin lẫn saxophone tenor. Ðến năm 1954 ông theo ban quân nhạc di cư vào Nha Trang, rồi đặt chân vào Sài Gòn năm 1956. Tại đây, ông chơi nhạc trong đài phát thanh, truyền hình, phòng trà và còn là trưởng ban nhạc nhẹ của đài Quân Ðội. Những năm về sau, ông là một thành viên cột trụ của ban nhạc Shotguns của Ngọc Chánh.

Ngoài việc trình diễn, Ðan Thọ sáng tác nhiều trong thời gian ấy và được bạn bè quý mến vì cả tài năng lẫn tính tình hiền hòa, vui vẻ. Giới yêu nhạc thì nhớ Ðan Thọ với những bản tình ca nhẹ nhàng, những ca khúc nhớ về đất Bắc. Nhạc của ông tha thiết, lời của ông trong sáng và các ca khúc của ông đều toát lên vẻ đôn hậu của con người. Ông có nhân cách đáng kính của người nghệ sĩ không bị lụy vì âm thanh, ánh sáng hay bóng đèn mờ, dù là người kể truyện rất tếu.

Ở ngoài đời, Quỳnh Giao nhớ nhất sự hòa nhã và chu đáo của ông.

Sau 10 năm khốn khổ tại quê nhà, Ðan Thọ sống đời lưu vong tại Mỹ và đời sống ấy cũng đã là một truyện đẹp. Ông sống trong khu phố sau lưng tiệm phở Nguyễn Huệ tại quận Cam mà hàng ngày bình thản lái xe lên tận Van Nuys làm công nhân cho hãng General Ribbon. Cuối tuần, ông mới sống với nghệ thuật: thổi kèn hay kéo đàn trong dàn nhạc ở vũ trường Ritz, của người bạn năm xưa là Ngọc Chánh. Ông sống từ tốn, ngăn nắp và dồn mọi tình thương cho gia đình. Thú vui của ông là nuôi chim yến.

Ông lặng lẽ sống như vậy cả chục năm, đến Tháng Bảy năm 1994 thì mời bạn bè tại California đến dự một buổi hòa nhạc tại Ritz. Ðấy là buổi ông chia tay sân khấu và đậy đàn vào hộp, cây đàn ôm từ Hà Nội vào Nam và qua Mỹ. Từ đấy, ông bà chuẩn bị về Louisiana sống cùng con cái. Quận Cam vắng mất một người đáng kính và đáng quý.

Khi nghe tin New Orleans bị bão lụt, bạn bè đã gọi nhau hỏi thăm tin tức của ông và mọi người đều mừng là Ðan Thọ đã kịp di tản qua Texas, vài ngày sau qua tạm trú ở Florida.

Những ai thường lượn qua vũ trường đều không thể quên được nhịp boston dìu dặt trên cung bậc quý phái của “Chiều Tím“. Ca khúc ấy thực ra còn tiêu biểu cho một hình ảnh đẹp hơn đèn màu nơi vũ trường. Ðan Thọ viết nhạc và sau đấy Ðinh Hùng mới đặt lời, nội trong một buổi chiều. Nhà thơ của chúng ta yêu nhạc và yêu bạn nên để lại lời từ đẹp như lời thơ.

Ngày nay, lời cuối của bài ca mới là một câu hỏi buồn, vọng lên từ giông bão: “Ðàn ơi nhắn giùm người đi phương nao, nếp chinh bào biếc ánh sao“.

Có hỏi cây đàn, nay đã bị vùi dập tan tác tại New Orleans, nó biết trả lời sao?

Quỳnh Giao – 13.9.2005